Thứ Bảy, 28 tháng 4, 2012


Nghệ thuật trào phúng thơ Nôm Hồ Xuân Hương
Mở đầu

Hồ Xuân Hương là một hiện tượng phức tạp, cuộc đời và sự nghiệp sáng tác của bà có đã tốn không ít giấy mực của các nhà nghiên cứu cũng như bao nhiêu những thắc mắc, hoài nghi trong lòng độc giả. Thậm chí đến ngày nay, những thắc mắc cần lời giải đáp đó vẫn chưa có hồi kết thúc. Từ đó cho thấy, cuộc đời và sự nghiệp của Hồ Xuân Hương quả là một hiện tượng văn hóa hết sức độc đáo. Điều này đã trở thành một chủ đề hấp dẫn cho các nhà nghiên cứu khám phá. 
Được mệnh danh là “bà chúa thơ Nôm”, chứng tỏ những đóng góp của bà đối với thơ Nôm dân tộc chiếm một trí không nhỏ. Trong “gia tài” thơ Nôm của mình, Hồ Xuân Hương đặc biệt thành công với mảng thơ trào phúng, đả kích. Hồ Xuân Hương đã góp phần đưa nghệ thuật trào phúng thơ Nôm lên đến đỉnh cao.
Nội dung

1.Vài nét về cuộc đời và sáng tác của Hồ Xuân Hương
1.1 Hồ Xuân Hương – cuộc đời và giai thoại
1.2 Thơ Nôm trào phúng Hồ Xuân Hương – thành công xuất sắc
2. Nét đặc sắc nghệ thuật trào phúng thơ Nôm Hồ Xuân Hương
2.1 Đề tài phong phú, đa dạng
2.1.1 Niềm đồng cảm với phụ nữ
Trong xã hội phong kiến, phụ nữ là người chịu nhiều thiệt thòi nhất. Họ không chỉ chịu sự áp bức về mặt giai cấp cũng làm lụng đầu tắt mặt tối, cũng đói cơm rách áo cũng trăm nghìn thứ trà đạp mà còn chịu áp bức về mặt giới tính, tinh thần mà cái đau khổ về tinh thần nhiều khi còn day dứt, đau đớn hơn nhiều lần cái đau khổ về thể chất. Họ giống như những “tội nhân chung thân” suốt đời gánh trên vai bao nhiêu ràng buộc của luật “tam tòng”, bởi những hủ tục giết chết tình yêu, tuổi trẻ, hạnh phúc. Đã có rất nhiều nhà văn nhân đạo thể hiện niềm cảm thông xót xa với thân phận người phụ nữ như người cung nữ (Cung oán ngâm khúc), người chinh phụ (Chinh phụ ngâm khúc)… Đến Hồ Xuân Hương, người phụ nữ trong thơ bà không phải người phụ nữ lầu son, gác tía chinh phụ hay cung tần mà là những người phụ nữ hết sức bình thường, những người phụ nữ lao động chịu nhiều bất hạnh trong đời sống.
Trong thơ mình Hồ Xuân Hương không nói đến toàn bộ nỗi khổ của người phụ nữ, bà dường như hướng đến nỗi khổ có tính chất giới tính của mình. Viết về đề tài phụ nữ, nhà thơ thường xoáy sâu vào các ngóc ngách éo le của cuộc đời để nêu lên những bi kịch khong kém phần chua chát, song bình thường nó bị xóa nhòa trong một cuộc sống vốn dĩ đã dập khuôn theo những chế ước nặng nề của lễ giáo.
Xuân Hương nêu lên một nét điển hình nổi bật của chế độ hôn nhân phong kiến đó là “Cảnh chồng chung”. Nhà thơ vạch ra cảnh làm lẽ chẳng qua chỉ như một thứ làm mướn, thậm chí là làm mướn không công. Người đàn ông có quyền có năm thê bảy thiếp nhưng người phụ nữ chính chuyên một chồng. Người phụ nữ chịu cảnh làm lẽ ngoài thỏa mãn cuộc sống dâm dật của bọn địa chủ còn trở thành thứ nhân công mà không mất tiền thuê. Những câu thơ của bà cất lên đầy niềm đồng cảm xót thương:
Năm thì mười họa chăng hay chớ,
Một tháng đôi lần có cũng không,
Cố đấm ăn xôi xôi lại hẩm
Cầm bằng làm mướn, mướn không công!
Khi uất ức không chịu được bà đã lên tiếng chửi mắng quyết liệt nhưng điều kiện xã hội vẫn ngang nhiên cho phép nó tồn tại. Trước thực tại, bà cũng đành bất lực trong tiếng thở dài. Tiếng thở dài này càng làm đậm thêm cái mỉa mai của thực tại:
Thân này ví biết đường này nhỉ,
Thà trước thôi đành ở vậy xong!

Một đặc điểm của thơ Xuân Hương là bà không hề dửng dưng lạnh nhạt mà nhà thơ luôn có một trái tim bỏng cháy, nói cái gì là nói với tất cả sự chân thành xúc động của mình. Khi giận dữ thì thét mắng, khi yêu đương thì đằm thắm ngọt ngào. Bà nhìn sự việc với thái độ cảm thông, khoan dung đại lượng với cảnh ngộ không may của họ qua bài “Không chồng mà chửa”. 
Trong xã hội phong kiến, người phụ nữ chửa hoang là một tội tày đình. Họ coi người phụ nữ mà đã thông gian thì đã mất hết cả liêm sỉ nên khi hành hình thì bắt cới áo cánh, để cho mặc váy gia hình còn những tội khác khi phạt cũng được mặc áo. Với Hồ Xuân Hương, bà quan niệm đó không phải là tội lỗi mà đó chỉ là chuyện “cả nể” đối với người tình, bởi vì cả nể nên mới hóa dở dang như vậy “Cả nể cho nên hóa dở dang”. Phụ nữ luôn giàu đức hi sinh, người phụ nữ trong thơ Xuân Hương cũng vậy, dám sẵn sàng chấp nhận, đương đầu với tất cả “Mảnh tình một khối thiếp xin mang” và tuyên chiến với lễ giáo phong kiến bằng lời lẽ hùng hồn đanh thép:
Quản bao miệng thế lời chênh lệch
Không có, nhưng mà, có mới ngoan
Trong những vần thơ của mình Hồ Xuân Hương luôn đem đến cho những người phụ nữ bất hạnh những lời động viên, muốn đem đến cho họ một nụ cười, giúp họ có nghị lực sống và chống chọi với cuộc sống. Đó là tiếng nói tri âm với một bà lang khóc chồng:
Văng vẳng tai nghe tiếng khóc gì
Thương chồng nên nỗi khóc tỉ ti
Nàng sẽ bảo với một cô gái chồng chết:
Nín đi kẻo thẹn với non sông
Ai về nhắn nhủ đàn em bé!...
Sẽ đem đến chút ánh sáng của lòng tin vào một lẽ phải công bằng và nhân đạo hơn cho những cô gái không chồng mà chửa có thể tiếp tục sống làm mẹ và làm người:
Không có, nhưng mà có, mới ngoan
Qua đó ta thấy, Xuân Hương không chỉ có cảm thông và bênh vực mà bà còn hết sức đề cao và ngợi ca họ. Bà tìm thấy vẻ đẹp thật sự chân chính của họ. Người phụ nữ trong thơ Hồ Xuân Hương không chỉ đẹp về ngoại hình mà họ còn mang những phẩm chất vô cùng cao quý. Hồ Xuân Hương không ngại ngần dựng nên một bức tranh khỏa thân truyền thần sinh động về cái đẹp cơ thể của một thiếu nữ:
Mùa hè hây hẩy gió nồm đông
Thiếu nữ nằm chơi quá giấc nồng.
Lược trúc biếc cài trên mái tóc,
Yếm đào trễ xuống dưới nương long.
Đôi gò bông đảo hương còn ngậm,
Một lạch đào nguyên suối chửa thông.
(Thiếu nữ)

Bức tranh người thiếu nữ ở đây không gợi lên những dục vọng thấp hèn, mà chỉ đem đến cho người đọc những rung động thẩm mỹ thanh cao. Bởi đó là vẻ đẹp mà tự nhiên đã ban tặng cho người phụ nữ. 
Thông qua những hình ảnh chiếc bánh trôi nước “bảy nổi ba chìm với nước non”; con ốc nhồi “Đêm ngày lăn lóc đám cỏ hôi”, hay quả mít “da nó xù sì”... nữ sĩ đã chú trọng phát hiện và khẳng định vẻ đẹp bên trong, vẻ đẹp sâu thẳm trong tâm hồn người phụ nữ. Dù hình thù xấu xí, dù bị “rắn nát” bởi “tay kẻ nặn” nhưng bản chất tốt đẹp, thánh thiện của người phụ nữ không bao giờ bị mất đi “mà em vẫn giữ tấm lòng son”.
2.1.2 Phê phán, đả kích giai cấp phong kiến thống trị
Giai cấp phong kiến, mà đại diện là vua chúa, quan lại, hiền nhân quân tử... luôn cho mình có sứ mạng truyền bá, hành xử đạo lí thánh hiền, giữ gìn kỉ cương xã hội. Đó là những “quân tử”, những người mang trong mình bao nhiêu tốt đẹp, trong sạch, thanh cao. Nhưng Hồ Xuân Hương đã vạch trần bộ mặt thật, lột chiếc áo đạo đức giả thùng thình, phơi bày cái xác thân phàm tục của họ. Với vũ khí tiếng cười, bà đã đánh rất trúng rất đau từ ông vua ngất ngưởng trên ngai vàng đến anh thư sinh nghiên bút đến cửa Khổng sân Trình để học đạo thánh hiền. Có thể thấy, đối tượng đả kích trong thơ bà rất rộng. Với vua chúa, bà chỉ mắng nhè nhẹ mà đau vô kể, và chỉ có thế cũng đủ làm cho vua chúa tối mặt, bà hạ bệ vua chúa ngang hàng với những kẻ vẫn bị người “quân tử” cho là “phàm phu tục tử”:
Hồng hồng má phấn duyên vì cậy
Chúa dấu vua yêu một cái này.

Hình ảnh “một cái này” là cái quạt: “chành ra ba góc da còn thiếu, khép lại đôi bên thịt vẫn thừa” mà Hồ Xuân Hương đã từng phẩy vào mặt, che lên đầu đấng anh hùng, người quân tử.
Nếu đối với vua chúa, nữ sĩ châm chích thói mê hoa, hiếu sắc thì với bạn quan thị, nữ sĩ giơ cao đánh thẳng vào cuộc sống trái lẽ tự nhiên của chúng:
Đố ai biết đó vông hay chóc
Còn kẻ nào hay cuống với đầu
Có lẽ kẻ chịu nhiều thương tích nhất là bọn “hiền nhân quân tử”, bọn mô phạm phong kiến. Tự xưng hiền nhân quân tử, tức đồ đệ của Nho giáo, nhưng việc làm lén lút, thậm chí ý nghĩ trong đầu chúng cũng bị Hồ Xuân Hương phát hiện và phơi bày ra ánh sáng cho mọi người thấy rằng những kẻ giả dối ấy, chúng rất đói và háo ăn, song vì khoác chiếc áo đạo đức trên người nên chúng phải “ăn vụng”. Bà đi guốc trong bụng chúng và chộp ngay được ý nghĩ mờ ám của chúng:
Quân tử dùng dằng đi chẳng dứt,
Đi thì cũng dở ở không xong

Đó còn là đám nho sĩ dốt nát, còn huênh hoang, hợm mình là con quan, là cậu ấm, tương lai sẽ là “rường cột nước nhà” nên ngổ ngáo, xem dưới gầm trời không còn ai nữa. Học không lo học lại còn đi ghẹo gái, thơ không ra thơ mà dám đề thơ ở chùa, ở miếu. Hồ Xuân Hương đã gọi chúng là “phường lòi tói”, lũ “ngẩn ngơ”, xưng “chị” và đòi “dạy” chúng “làm thơ” và dọa “Muốn sống đem vôi quét trả đến” ngay.
Nhắc đến cửa chùa, Hồ Xuân Hương cũng vạch trần những hành vi dâm đãng diễn ra ngay trước cửa đền chùa:
Oản dâng trước mặt dăm ba phẩm
Vãi nấp sau lưng sáu bảy bà.
Khi cảnh, khi tiu, khi chũm chọe
Giọng hì, giọng hỉ, giọng hi ha.

Qua đó ta thấy tiếng cười trong thơ Hồ Xuân Hương rất đa dạng hướng đến mọi đối tượng khác nhau trong cuộc sống từ bọn vua chúa đến bọn quan thị, từ bọn “hiền nhân quân tử” đến bọn tu hành núp dưới bóng nhà Phật làm điều xấu. Điều đó đã thể hiện sức bao quát của Hồ Xuân Hương đối với thế thái nhân tình. Bà đã cười với mọi giọng dõng dạc, chủ động, đàn chị “cười nhọn, cười sắc, cười gằn”, “cười vào tận óc” những kẻ tự xưng là địa diện cho nề nếp đạo đức xã hội.
2.1.3 Bộc lộ tiếng lòng của chính mình
Thơ trào phúng của Hồ Xuân Hương ngoài mục đích chĩa mũi nhọn vào chế độ và lễ giáo phong kiến còn đề cập đến nỗi niềm riêng tư của nhà thơ. Đó là sự thể hiện ước mơ, khát khao hạnh phúc lứa đôi, muốn có một cuộc sống trần tục thiên về mặt bản năng. Hồ Xuân Hương có ba bài thơ trữ tình bộc lộ về mình của tác giả. Đó là những bài thơ viết về duyên phận chìm nổi, lênh đênh của nhà thơ. Lê Trí Viễn đã viết: “Đau đớn ê chề là như vậy, nhưng Xuân Hương vẫn trở về với bản ngã yêu đời. Lời thơ vẫn trào lộng, hóm hỉnh. Cái luật của đời: bi quá hóa hài. Hài để mà chua xót, vơi nỗi buồn chán. Càng chua xót, đau thương lại càng tìm đến cái cười... ra nước mắt.”
Qua chùm ba bài thơ Tự tình I, Tự tình II, Tự tình III đã thể hiện trong sâu thẳm tâm hồn Hồ Xuân Hương những bi kịch của cuộc đời mà thường ngày cái bản lĩnh cứng cỏi làm lu mờ. Bà là một người phụ nữ tài hoa nhưng lại vấp phải cuộc đời nhân duyên dở dang, số phận long đong. Trong đêm khuay khi đối diện với chính mình thì nỗi đau ùa về. Dường như Xuân Hương đã “ngồi nhẫn tàn canh”, ngồi một mình cô đơn đối diện với đêm khuya, với vầng trăng lạnh. Nhưng những vần thơ của bà không phải vì thế mà trở nên mềm yếu, trong cái mềm yếu ấy vẫn chứa đựng một bản lĩnh thách thức, hóm hỉnh :
Ấy ai thăm ván cam lòng vậy,
Ngán nỗi ôm đàn những tấp tênh!
(Tự tình III)

Ba bài Tự tình là “ba bài than thân làm thành một bộ ba song song nhau, bài nào cũng tiêu tao, cũng nói ra đáy lòng của người phụ nữ.” Qua ba bài thơ này, nhà thơ thể hiện tấm lòng chân thật của người phụ nữ về thân phận ê chề, đau khổ của mình. Đồng thời nói lên niềm khát khao cháy bỏng, ước mơ được yêu, được trao duyên gửi tình của nhà thơ. Nỗi niềm riêng tây của Hồ Xuân Hương không chỉ được thể hiện ở ba bài thơ Tự tình này mà còn thể hiện ở nhiều bài thơ khác khi thì trực tiếp khi thì gián tiếp. Nhiều bài thơ Hồ Xuân Hương viết về người cũng chính là viết về mình và ngược lại khi viết về mình cũng là viết về người.
2.1.4 Thiên nhiên trong thơ Hồ Xuân Hương
Hồ Xuân Hương là một nhà thơ trào phúng xuất sắc, điều này không ai có thể phủ nhận nhưng yếu tố trào phúng và trữ tình không hề đối lập nhau mà trái lại thống nhất chặt chẽ với nhau. Chính yếu tố trữ tình đã khiến cho yếu tố trào phúng thêm thâm thúy, chua xót. Bức tranh thiên nhiên trong thơ Hồ Xuân Hương góp phần không nhỏ vào việc thể hiện nghệ thuật của mình. Đó là những cảnh thiên nhiên hết sức quen thuộc: chùa Hương, Đèo Ngang, hang Thánh Hóa... thậm chí hướng đến những không gian nhỏ bé, bình dị ở nơi thôn quê: cái giếng, ngôi chùa, đám hội xuân, ... những cảnh đẹp hết sức êm đềm.
Thiên nhiên cũng làm nền tạo nên những liên tưởng bất ngờ và thú vị:
Cầu trắng phau phau đôi ván ghép
Nước trong leo lẻo một dòng thông,
Cỏ gà lún phún leo quanh mép
Cá diếc le te lách giữa dòng
(Giếng thơi)

Vẻ đẹp thân thể của người phụ nữ chính là điều mà nữ sĩ muốn hướng đến. Nó trở thành một tín hiệu nghệ thuật, vì vậy nó không phải là dâm đãng. Đó là vẻ đẹp mà tạo hóa ban tặng cho người phụ nữ, Hồ Xuân Hương cũng là một người phụ nữ, bà nâng niu chân trọng cái vẻ đẹp trần thế, tự nhiên ấy. Càng bị đè nén thì vẻ đẹp ấy càng muốn bứt phá, khẳng định. Hồ Xuân Hương qua cảnh gửi tình thể hiện ước mơ khát vọng hạnh phúc của mình. 
Chính vì thể hiện khát khao muốn khẳng định nên thiên nhiên trong thơ Hồ Xuân Hương không bao giờ yên ắng mà nó luôn cựa quậy hết sức sinh động.
Lắt lẻo cành thông cơn gió thốc,
Đầm đìa lá liễu giọt sương gieo
Đi đôi với cảnh bao giờ cũng là những màu sắc sinh động:
Trai đu gối hạc khom lưng cật,
Gái uốn lưng ong ngửa ngửa lòng
Bốn mảnh quần hồng bay phấp phới,
Hai hàng chân ngọc duỗi song song.
(Đánh đu)

Nhiều người đã liên tưởng và cho rằng thơ Hồ Xuân Hương là “dâm tục” thường thể hiện những hành vi tính giao của nam nữ. Nhưng đó là một thứ tình dục lành mạnh thể hiện khát vọng lứa đôi hạnh phúc của người phụ nữ hết sức tha thiết với tình yêu và hạnh phúc gia đình nhưng lại gặp phải bi kịch. Người đọc vì thế luôn cảm thấy một thiên nhiên căng tràn sức sống, một thiên nhiên luôn cựa quậy và tươi rói màu sắc. 
2.2 Ngôn ngữ và giọng điệu thơ
2.2.1 Thơ Nôm Hồ Xuân Hương – phong phú về mặt từ vựng
Trong kho tàng thơ Nôm trào phúng của Hồ Xuân Hương chúng ta thấy từ vựng trong sáng tác của bà như những bông hoa muôn sắc màu, màu hoa nào cũng đầy sức sống. Nó như một cơ thể sống luôn luôn vận động. Đầu tiên là phải kể đến hệ thống những động tự mạnh thể hiện sức sống mãnh liệt không gì có thể ngăn cản được:
Xiên ngang mặt đất rêu từng đám
Đâm toạc chân mây đã mấy hòn

Những sự vật trong thơ Hồ Xuân Hương dường như nó không phát triển thuận theo tự nhiên mà luôn bứt phá thể hiện một sự thách thức, dám đương đầu để mà sống. Hàng loạt động từ trong xuất hiện trong các bài thơ khác như: nảy (nảy vừng quế đỏ, nảy nét ngang, húc (giậu thưa), nổi chìm (bảy nổi ba chìm với nước non)...các cách liên kết đó tạo nên một nhịp thơ mạnh mẽ, tạo nên thế giới của sự sống, của thiên nhiên năng động, đầy sức sống. Dường như người đọc bị lay động bởi những rung chuyển dữ dội của sự sống: nó không im, không tĩnh mà nó sinh sôi, nảy nở, tung hoành, nhảy múa... Thậm chí những động từ đó còn được sử dụng để tái hiện bước chân của cuộc sống con người: “Người quen cảnh Phật chen chân xọc, kẻ lạ bầu tiên mỏi mắt dòm... 
Những động từ này góp phần vạch mặt, chửi thẳng vào bọn sư mô đạo đức giả, bọn học trò dốt nát với những động từ như “đấm, khua, móc” hay “châm húc” (Ong non ngứa nọc châm hoa rữa / Dê cỏn buồn sừng húc giậu thưa).
Bên cạnh động từ, hệ thống từ vựng tính từ cũng chiếm vị trí không nhỏ trong thơ Hồ Xuân Hương và tạo được những rung cảm thẩm mĩ hết sức hiệu quả. Thế giới của Hồ Xuân Hương không bao giờ chịu an phận tĩnh lặng mà luôn luôn phải bứt phá, sinh động. Những tính từ đã diễn tả màu sắc trong thơ Hồ Xuân Hương. Đó là những màu sắc thường đậm và nóng. Đỏ thì “đỏ loét”, đỏ “lòm lom”, đỏ “như son”, xanh thì “xanh rì”, trắng thì “trắng phau”, trong thì phải “trong leo lẻo”, tối thì “tối om om”, sáng thì “sáng banh”, trưa là “trưa trật”. Xuân Hương không chỉ nhìn “những màu sắc thường “những màu sắc đó phải kêu lên, phải xé ra, phải cao độ” mà cái nhìn của bà còn như nhát dao, nhát đục, đẽo gọt sự vật, tạo nên những hình khối, những đường nét sắc nhọn như đập vào mắt người xem:
Trời đất sinh ra đá một chòm
Nứt ra đôi mảnh hõm hòm hom
(Hang Cắc Cớ)
Đứng tréo trông theo cảnh hắt heo
Đường đi thiên thẹo quán cheo leo
(Quán Khánh)

Đọc thơ Hồ Xuân Hương không chỉ có mắt nhìn, tai nghe mà nói chung các giác quan của ta đều phải căng lên để cảm nhận. Từ đó cho thấy, hệ thống từ vựng trong thơ Hồ Xuân Hương hết sức phong phú và đa dạng tạo nên vũ khí sắc bén để châm biếm, đả kích sâu cay.
Bên cạnh đó còn ngôn ngữ phong phua của kho tàng dân gian cũng được Hồ Xuân Hương vận dụng rất thành công.
2.2.2 Giọng điệu châm biếm đả kích
Giọng điệu chủ đạo trong những sáng tác trào phúng thơ Nôm của Hồ Xuân Hương thể hiện rất rõ ở giọng điệu châm biếm đả kích. Với giọng điệu này, nữ sĩ hướng tới mọi đối tượng, không bỏ một ai, từ bọn vua chúa, quan lại đến những kẻ “hiền nhân quân tử”, bọn sư mô núp bóng cửa chùa làm việc xấu. Đó là những lời đả phá, chế giễu một cách gay gắt. Thông qua giọng điệu đó bà đã không ngần ngại vạch trần những thói hư tật xấu, những bộ mặt giả nhân giả nghĩa, “ngụy quân tử”. Với mỗi đối tượng, giọng điệu ấy lại biến hóa linh hoạt.
Chẳng hạn như với bọn sư mô, nhà thơ chỉ phác họa vài nét nhưng người đọc vẫn nhận được giọng điệu châm biếm thâm thúy, sâu cay của Hồ Xuân Hương về những cảnh “chướng tai gai mắt” ở nơi thâm nghiêm: sư cụ đang mãi “đáo nơi neo”, chú tiểu thì bỏ kinh kệ, bỏ cả “chày kinh”. Giọng thơ châm biếm khá chua cay:
Cái kiếp tu hành nặng đá đeo
Vẻ gì một chút tẻo tèo teo
Thuyền từ cũng muốn sang Tây Trúc
Trái gió nên cho phải lộn lèo
Với bọn đạo đức giả, những kẻ “xấu nói tốt, dốt nói chữ” những kẻ hợm hĩnh, khoe khoang giọng điệu châm biếm của Hồ Xuân Hương ngoài việc bóc trần thói đôt nát của bọn chúng còn thể hiện giọng châm biếm của bậc bề trên “chị” đối với bọn đàn em:
Khéo khéo đi đâu lũ ngẩn ngơ
Lại đây chị dạy cho làm thơ
Ong non ngứa nọc châm hoa rữa
Dê cỏn buồn sừng húc giậu thưa

Cách gọi “ong non”, “dê cỏn”, “ngứa nọc”, “buồn sừng” thể hiện rất thành công bản chất ti toe của những anh nửa trẻ con nửa người lớn. Bọn chúng chỉ là những kẻ “ngựa non háu đá”, hợm hĩnh chứ thực chất không có một chút học thức thật sự gì.
Giọng điệu châm biếm ấy lại trở nên chua xót khi bà thể hiện hoàn cảnh của những người đàn bà không chồng mà chửa. Hay khi nghĩ về chính hoàn cảnh bất hạnh của mình thì giọng điệu ấy lại trở nên mỉa mai gay gắt:
Kẻ đắp chăn bông kẻ lạnh lùng,
Chém cha cái kiếp lấy chồng chung!
Năm thì mười họa chăng hay chớ,
Một tháng đôi lần có cũng không.
Không chỉ xót xa, chế giễu, giọng điệu châm biếm, đả kích còn hướng tới khẳng định một bản lĩnh – bản lĩnh Hồ Xuân Hương:
Ví đây đổi phận làm trai được
Thì sự anh hùng há bấy nhiêu

Từ những điều trên đã cho chúng ta thấy, tiếng cười của Hồ Xuân Hương bao giờ cũng bao hàm hai mặt: mặt phê phán đả phá và mặt ngợi ca khẳng định. Tiếng cười đơn thuần chỉ tạo ra niềm vui tức thời cho con người, còn tiếng cười sâu sắc phải là tiếng cười có giá trị nhân đạo. Nó không chỉ phê phán mà còn ngợi ca, khẳng định bênh vực con người. Tiếng cười của Hồ Xuân Hương cũng vậy! Bên cạnh việc tố cáo cả một bè lũ phong kiến thống trị trụy lạc, xa hoa thì tiếng cười trong thơ nữ sĩ còn hướng tới bênh vực những người phụ nữ bất hạnh, chân trọng ngợi ca những phẩm chất của họ và đặc biệt bản lĩnh của chính bản thân mình.
2.2.3 Kế thừa và sáng tạo lối thơ Nôm thuần túy
Tiếp xúc với thơ Hồ Xuân Hương người đọc được tiếp xúc với tiếng nói thuần túy của dân tộc, không điển tích cao xa, không chữ sách thông thái. Thơ bà gần với ngôn ngữ bình dân. Câu thơ thường chỉ như một lời nói cửa miệng:
- Mười bảy hay là mười tám đây?
- Khéo khéo đi đâu lũ ngẩn ngơ!
Đặc biệt những lời nói ấy được bà đưa vào luật lệ thất ngôn rất tự nhiên:
Rúc rích thây cha con chuột nhắt,
Vo ve mặc mẹ cái ong bầu.

Những hình ảnh hết sức bình dân, quen thuộc với đời sống hàng ngày cũng được bà đưa vào trong thơ như những thi liệu hết sức đắc lực phục vụ cho ngòi bút trào phúng của mình. Nào là hình ảnh chiếc bánh trôi nước, cái quạt, cây đu, con ốc, quả mít… Hồ Xuân Hương lấy những vật rất tầm thường mà tự ví mình để chọc thiên hạ và khẳng định vẻ đẹp tâm hồn của người phụ nữ, nàng muốn đả phá mạnh mẽ bộ mặt đạo đức giả của xã hội phong kiến (chẳng hạn như hình ảnh chiếc bánh trôi bị người ta mân mó nhưng nó vẫn “giữ tấm lòng son”). Hồ Xuân Hương đã thổi một làn gió khác vào hai thể thơ tứ tuyệt và bát cú khiến nó không còn bị gò bó mà thanh thoát, thoải mái.
Tuy nhiên không phải vì những lời nói dân giã mà mất đi giá trị thơ của Hồ Xuân Hương, bà vẫn tạo được những thành công đặc sắc dựng nên những bức tranh lạ thường và tràn đầy sức sống:
Bốn cọc khen ai khéo khéo trồng
Người thì lên đánh kẻ ngồi trông.
Trai đu gối hạc khom khom cật,
Gái uốn lưng ong ngửa ngửa lòng…
Hồ Xuân Hương còn sử dụng lối nói lái, ỡm ờ của dân gian trong các truyện tiếu lâm, truyện cười và cũng không ngần ngại khi văng tục:
Quán Sư sao mà cảnh vắng teo
Hỏi thăm sư cụ đao nơi neo
(Chùa Quán Sứ)
Đầu sư há phải gì... bà cốt
Bé ngọ con ong bé cái nhầm
(Sư bị ong châm)

Ngôn ngữ sinh hoạt hàng ngày cũng như thành ngữ, tục ngữ, lối ca dao cũng được bà vận dụng hết sức thành công chính xác đến “ghê người”.
Bên cạnh việc vận dụng ngôn ngữ dân gian, lối thơ Nôm thuần túy mà Hồ Xuân Hương còn tạo cho mình một phong cách riêng thể hiện một bản lĩnh sáng tạo. Bà có ý thức nâng những ngôn ngữ đời thường lên những tầm biểu hiện cao. Chẳng hạn việc Hồ Xuân Hương dùng hai chữ “xọc”và “dòm” trong bài “Động Hương Tích” ( so sánh với “bước” và “nhìn”: gợi cảnh đông đúc, gợi liên tưởng đến hoạt động tính giao.). Những con chữ trong thơ bà như nhảy múa rất tài tình. Bà dùng trong một bài thơ 27 chữ mà có đến 5 chữ chỉ những con vật cùng loài cóc: (chẫu) chàng, (nhái) bén, nòng nọc, 
(chẫu) chuộc, đây là một sự cố ý nghệ thuật để chế giễu cái chết của Tổng Cóc...
Chính việc vận dụng ngôn ngữ dân gian và nâng lên một tầm cao, Hồ Xuân Hương đã khẳng định được tài năng vượt trội của mình vừa thể hiện thành công ngòi bút trào phúng vừa thể hiện bản lĩnh thơ của mình. Xuân Diệu mệnh danh Hồ Xuân Hương là “bà chúa thơ Nôm” quả là đúng đăn!
KẾT LUẬN
    Có thể nhận thấy rằng trên thế giới những nhà thơ thiên tài trữ tình không nhiều lắm và càng hiếm hoi khi nhìn sang lĩnh vực thơ trào phúng nhất là đối với phụ nữ. Nhưng ở Việt Nam ta lại có một thiên tài trào phúng và lại là nữ. Ở Hồ Xuân Hương không phải chỉ có tiếng cười, lời chế giễu... mà trên những cái ấy là tiếng kêu than uất ức, thậm chí có cả nước mắt mà bà cố nuốt đi. Đọc thơ Xuân Hương, ta càng thấy thấm thía với ý của Xuân Diệu : “Những nhà trào phúng vĩ đại không nhe răng ra mà cười, không chửi bằng lời nói, họ ném cả trái tim của họ, ném cả cuộc đời của họ vào cuộc đời, cũng như những nhà trữ tình vĩ đại. Trong xã hội cũ, thơ của họ thực chất là máu và nước mắt mặc cái áo trào phúng đó thôi”. Cuộc đời Hồ Xuân Hương và thơ bà là một hiện tượng hết sức phức tạp, nhiều điều còn chưa rõ ràng nhưng dù sao với những tài liệu mà hiện chúng ta đang có thì con người và thơ Hồ Xuân Hương là một niềm tự hào trong văn học Việt Nam – một nữ thi sĩ đầy bản lĩnh và tài hoa.


Những nét tiêu biểu trong thơ Hồ Xuân Hương

Hồ Xuân Hương trưởng thành trong giai đoạn lịch sử chiến tranh, ảnh hưởng nặng nề phong kiến “nhất nam viết tử thập nữ viết vô”.  Đàn bà ít được đi học ứng thí như đàn ông, may mắn học ít chữ, lấy chồng sanh con lo việc nội trợ. Xuân Hương đã tỏ ra là một thiên tài, làm thơ khẩu khí bị trợt té người ta cười, bà làm ngay hai câu thơ để chữa thẹn
Giơ tay với thử trời cao thấp 
Xoạc cẳng đo xem đất vắn dài  
 
   Hồ Xuân Hương thông minh, có tài, khá tiếc thay sinh ra phận gái nên cái lỗi lạc của bà thành ra lãng mạn mà lắm người cho là “lẳng lơ“! Nhưng hãy đọc mấy câu thơ sau của bà, dũng khí như một đấng tu mi nam tử. Khi đi ngang qua miếu Sầm Nghi Đống, bị vua Quang Trung giết ở Đống Đa mùng 5 tháng giêng năm Kỷ dậu 1789. Người Hoa lập miếu thờ, tin đồn miếu linh thiêng nên Xuân Hương đã đề mấy câu thơ :  
Ghé mắt trông nghiêng thấy bảng treo
Kià đền Thái thú đứng cheo leo
Ví đây đổi phận làm trai được
Thì sự anh hùng há bấy nhiêu ?  

    Dưới xã hội thời phong kiến người ta quan niệm „trai năm thê bảy thiếp, gái chín chuyên chỉ một chồng“ Xã hội bất công ! vấn đề đa thê ngày nay không được chấp nhận (ngoại trừ các nước theo Hồi Giáo). Ngày xưa chồng chết vợ phải thủ tiết thờ chồng.. Nhưng Xuân Hương đã muốn phá cái phong tục thời đó. Nên lúc sống với ông Phủ Vĩnh Tường, có người goá phụ còn trẻ muốn được tái giá, làm đơn xin quan phủ xét, gặp lúc ông phủ đi vắng, Xuân Hương xem đơn và phê ngay :
Phó cho con Nguyễn thị Đào
Nước trong loe lẻo cắm sào chờ ai ?
Chữ rằng xuân bất tái lai
Cho về kiếm chút kẻo mai nữa già .  

   Những bài thơ tuyệt tác của Xuân Hương được lưu truyền hậu thế qua tập Lưu Hương Ký. Biệt tài thơ Xuân Hương dùng chữ Việt thuần tuý, không vay mượn điễn tích sáo ngữ, đọc thơ hiểu được nghiã đen và nghiã bóng. Đọc thơ Hồ Xuân Hương với tâm hồn nghệ sĩ thực sự phát hiện được những khía cạnh miêu tả rất thẩm mỹ. 
   Đọc bài „Ngủ quên„ như xem bức tranh trưa hè người thiếu nữ đang ngủ, độc giả có thể liên tưởng đến bức tượng khỏa thân với những đường nét tuyệt vời sống động... cảm thấy rung động nghệ thuật trước hình ảnh đẹp lành mạnh.  
Mùa hè hây hẩy gió nồm đông
Thiếu nữ nằm chơi quá giấc nồng
Lược trúc chải cài trên mái tóc,
Yếm đào trễ xuống dưới nương long
Đôi gò Bồng Đảo sương còn ngậm
Một lạch Đào Nguyên suối chửa thông
Quân tử dùng dằng đi chẳng dứt
Đi thì cũng dở ở không xong. 
   Cái đẹp bất cứ ở đâu đều được mọi người yêu chuộng, người trần tục ai thấy hoa đẹp không muốn nhìn? Từ xưa và nay nhiều phê bình bàn cãi tranh luận, thơ Xuân Hương mang tính chất dâm và tục ..Những người yêu thơ Xuân Hương thường hết lời ca tụng xem những sáng tác cuả Xuân Hương kỳ diệu từ cách dùng chữ chính xác âm điệu kỳ tài.. Nhóm khác phê bình thơ mang chất tục sinh lý đè nén „Libido“ ..Bài thơ đầu đề không được thanh “Dương vật“ Hồ Xuân Hương tả rất hay
Bác mẹ sinh ra vốn chẳng hèn
Ban đêm không mắt sáng như đèn
Đầu đội nón da loe chóp đỏ
Lưng đeo bị đạn rủ thao đen
Để có thể thẩm định thế đứng của nhà thơ nầy, nói về Văn học không thể đọc một số bài thơ rồi cho là dâm tục có quá đáng chăng?.. Bởi vì vấn đề Tình Dục từ Á sang Âu thường được trình bày qua các tác phẩm văn chương, những hình điêu khắc chạm trổ trong các Cung điện, Đền đài lưu tại từ ngàn năm về trước có những nét đẹp độc đáo như thân thể đàn bà qua những đường cong tuyệt vời, bộ ngực no tròn lồ lộ dưới lớp xiêm y mỏng manh .. những tác phẩm đó thể hiện linh động văn hóa, sắc thái mang tính chất diễn tả về nghệ thuật. Mỗi dân tộc văn minh có sinh hoạt văn hoá khác nhau, Nhiều sắc dân họ thờ các bộ phận sinh dục, dân tộc Chàm xây các Tháp theo hình tượng Lingam (dương vật) tình dục được nói đến trong sinh hoạt của con người. Xã hội bình dân xưa không thoát khỏi qui luật dục vọng cá nhân là lẽ sống con người, dục vọng tập thể là lẽ sống của xã hội. Bởi vậy ca dao được truyền tụng trong dân gian. 
Có chồng từ thuở mười lăm.
Chồng chê tôi nhỏ không nằm cùng tôi.
Đến chừng mười chín đôi mươi.
Tôi ngủ dưới đất chàng lôi lên giường
Một rằng thương, hai rằng thương
Có bốn cẳng giường gãy một còn ba!

(Ca dao)
Đời sống qua thi ca bình dân, diễn tả trào lộng, vui tươi vốn có trong thực tế không nói xa gần, cái điếu cày hút thuốc người bình dân . 
Lòng em cay đắng quanh năm
Khi ngồi, khi đứng, khi nằm nghênh ngang
Các anh các bác trong làng
Gặp em thì lại vội vàng nâng niu
Vắng em đau khổ trăm chiều
Tuy rằng cay đắng nhưng nhiều người mê

(ca dao)
Nổi tiếng như Truyện Kiều diễn tả lại chuyện tình dục trong khuê phòng, 
Đêm xuân một giấc mơ màng
Đuốc hoa để đó, mặc nàng nằm trơ 
hoặc
Này con thuộc lấy nằm lòng
Vành ngoài bảy chữ, vành trong tám nghề
Chơi cho liễu chán hoa chê
Cho lăn lóc đá cho mê mẩn đời
Khi khóe hạnh khi nét ngài
Khi ngâm ngơi nguyệt khi cười cợt hoa
Điều là nghề nghiệp trong nhà
Đủ ngần ấy nếp mới là người soi

Hay Trạng Quỳnh với bài tạ ơn cô hàng bánh
Đương cơn nắng cực đói lòng thay
Thết đãi ơn cô có bụng nầy
Giờ biết lấy gì mà tạ lại
Xin quỳ hai gối chống hai tay

Sinh hoạt xã hội bất kỳ ở tầng lớp nào, dục tính cá nhân vẫn len lỏi vào cuộc sống. Cái khác biệt toàn thể về bản chất không ai giống ai. Hồ Xuân Hương người trần tục nên ca tụng sinh họat trần tục và những niềm vui trần tục, đọc thơ Xuân Hương để tiếp nhận cái tinh thần hồn nhiên trong ca dao, tục ngữ. Tôi Không đào sâu cái „tục“ trong thơ làm đề tài chính. Thơ Xuân Hương rất sống động tài tình mang tinh hoa khác, đó là một giá trị tồn tại mãi mãi trong lâu đài văn hoá dân tộc. Đọc hai bài thơ sau để so sánh bài đèo Ngang và đèo Ba Đội cuả hai nữ sĩ
Bước tới đèo ngang bóng xế tà
Cỏ cây chen đá, lá chen hoa
Lom khom dưới núi tiều vài chú
Lác đác bên sông chợ (rợ) mấy nhà
Nhớ nước đau lòng con cuốc cuốc
Thương nhà mỏi miệng cái gia gia
Dừng chân đứng lại trời non nước
Một mảnh tình riêng ta với ta

(Huyện Thanh Quan)
Chúng ta cảm nhận bài thơ ấy hay nhẹ nhàng trang nhã, bài nầy có 8 câu nhưng vay mượn ý của hai câu chữ Hán
Dạ thính đỗ quyên minh quốc quốc
Nhật văn cô điểu khiếu gia gia
Nghiã là 
Đêm nghe đỗ vũ kêu quốc quốc
Ngày lắng gà rừng gọi gia gia

Hồ Xuân Hương vịnh đèo Ba Đội là một bức tranh tả chân đơn sơ 
Một đèo, một đèo lại một đèo
Khen ai khéo tạc cảnh cheo leo
Cửa son đỏ loét tùm lum nóc  
Hòn đá xanh rì lún phún rêu
Lắt lẻo cành thông cơn gió thốc
Đầm đià lá liễu giọt sương rơi
Hiền nhân quân tử ai là chẳng
Mõi gối chồn chân cũng muốn trèo

          Bài thơ nầy đọc qua độc giả có thể nhận ra ngay đó là đèo Ba Đội, „một đèo, một đèo lại một đèo“  từ màu sắc “cửa son đỏ lóet; tùm lum, xanh rì; lún phún; lắt lẻo“.. Xuân Hương đã tài tình tạo ra một bức tranh sống động thành hợp tấu kỳ thú, từ âm thanh, màu sắc, nếu đi qua đèo thi độc giả chia sẻ với thi nhân  Xuân Hương là một nhạc sĩ tài tình, phối hợp cả âm thanh, màu sắc, không gian lẫn thời gian, tạo những nét đặc sắc, thông thường ít nghe diệp âm „hõm hòm hom, toen hoẻn ..„ trong bài vịnh hang Cắc Cớ
Trời đất sinh ra đá một chòm
Nứt làm đôi mảnh hõm hòm hom 
Kẽ hầm rêu mốc trơ toen hoẻn,
Luồng gió thông reo vỗ phập phòm
Gịot nước hữu tình rơi lõm bõm
Con đường vô ngạn tối om om
Khen ai đẽo đá tài xuyên tạc
Khéo hớ hênh ra lắm kẻ dòm
       Giọt nước từ những thạch nhủ rơi từng giọt, xuống vũng nước bên dưới lõm bõm, con đường vào hang thiếu ánh sáng. Ngày nay nhờ phương tiện lưu thông thuận lợi, nếu ghé hang Thánh Hoá ở làng Thuỵ Khê, huyện Sài Sơn tỉnh Sơn Tây (Hà Tây) hang ở hòn núi có Chùa Thầy. Hàng năm có hội chùa Thầy mà không vào hang Cắc Cớ thì coi như chưa biết chùa Thầy. Đến đó sẽ nhớ ngay nữ sĩ Xuân Hương ! là một thiên tài cũng vịnh cảnh Chùa Hương Tích ở huyện Mỹ Đức Hà Đông rất linh động cảnh trời mây non nước..vào những ngày đầu xuân, hội Chùa Hương nhộn nhịp, người tu hành thì ít, kẻ trần tục thì nhiều, muốn lên phải gọi là trèo các bậc thì đúng hơn là đi, chen chân trong động hương khói pha mờ mù sương.
Người quen cõi Phật chen chân xọc
Kẻ lạ bầu tiên mỏi mắt dòm... 
              
        Bài „đánh đu“ bức tranh quê sống động hơn, diễn tả cảnh vui xuân náo nhiệt
Bốn cột khen ai khéo khéo trồng
Người thì lên đánh, kẻ ngồi trông
Trai đu gối hạc khom khom cật,
Gái uốn lưng ong ngửa ngửa lòng
Bốn mảnh quần hồng bay phất phới
Hai hàng châu ngọc duỗi song song
Chơi xuân ai biết xuân chăng tá ? 
Cột nhổ đi rồi, lỗ bỏ không  !
        Có thể Hồ Xuân Hương phỏng theo bài thơ trên bài cây đánh đu vốn có trong tập Hồng Đức Quốc Âm Thi Tập
Bốn cột lang nha ngắm để trồng
À thì đánh cái ả còn ngong
Tế hậu thổ khom khom cật,
Vái hoàng thiên ngửa ngửa lòng
Tám bức quần hồng bay phất phới,
Hai hàng châu ngọc đứng song song
Chơi xuân hết tấc xuân dường ấy
Nhổ cột đem về để lỗ không .

Ngày nay ở miền Bắc hội xuân vẫn còn giữ trò chơi đánh đu, thường những trai gái thích đánh đu như cuộc thi lòng dũng cảm. Khi chàng trai nhấn đu, cô gái trong tư thế tay nắm chặt, chân duỗi thẳng, chờ đón độ cao bay bổng. Khi độ cao đã giảm đến lượt cô gái nhún, chàng trai lại chờ đón..tất cả phải nhịp nhàng, khoẻ mà mềm mại bay cao ung dung, vẻ đẹp càng hiện rõ hình thể bên ngoài ..gối hạc, lưng ong, ngưả ngửa lòng, phất phới, song song. Xuân Hương đã khéo tài tình dùng điệp khúc 
Qua ca dao Việt nam cũng có nhiều bài truyền tụng rất là „tục“ như cái vịnh cái quạt
Rành rành ba góc rành rành 
Khi khép nhỏ lại, khi vành to ra
Khi vui thì sướng thay là 
Khi buồn thì nước chảy ra rì rì..

    Hồ Xuân Hương tả cái quạt duyên dáng hơn có tính cách tương tự như ca dao tục ngữ hài hước, tả cái quạt có nhiều nan được bồi bằng giấy với hình dáng xòe ra để quạt cho mát, bất cứ ở đâu, khi mưa có thể che đầu, khi xếp lại những nếp giấy chồng lên vẫn còn thừa.
Một lỗ sâu xâu mấy cũng vừa
Duyên em dính dáng tự bao giờ
Chành ra ba góc da còn thiếu
Khép lại đôi bên thịt vẫn thừa
Mát mặt anh hùng khi nắng gió,
Che đầu quân tử lúc sa mưa
Nâng niu ướm hỏi người trong trướng
Phì phạch trong lòng đã sướng chưa ...

     Ngành tiểu công nghệ dệt vải thời xưa mỗi gia đình ở thôn quê, thường trồng cây bông, nuôi tằm ươm tơ làm luạ tự dệt may sắm áo quần. Ban ngày làm việc đồng áng, đêm về dệt vải với dụng cụ đơn giản cái khung cửi, hai ống trục, một bộ go, hai cái lược, một đôi guốc con suốt, con thoi (con cò bằng gõ). Xuân Hương tả đêm cô gái dệt vải; mà phẩm chất vải tốt không phai màu phải ngâm lâu
Thắp đèn lên thấy trắng phau
Con cò mấp máy suốt đêm thâu
Hai chân đạp xuống năng năng nhắc
Một suốt đâm ngang thích thích mau
Rộng hẹp nhỏ to vưà vặn cả
Ngắn dài khuôn khổ cũng như nhau
Cô nào muốn tốt ngâm cho kỹ
Chờ đến ba thu mới dãi màu
 Chùa Quán Sứ được xây dựng từ thế kỷ thứ 17 nằm ở phố cũng mang tên Quán Sứ Hà Nội; Phật giáo vào thời Xuân Hương suy thoái, thời nào cũng có người núp dưới chiếc áo cà sa.. Xuân Hương đã nghi ngờ về chùa Quán Sứ trong cảnh vắng teo
Quán sứ sao mà cảnh vắng teo
Hỏi thăm sư cụ đáo nơi nao
Chày kình, tiểu để suông không đấm
Tràng hạt, vãi lần đếm lại đeo
Sáng banh không kẻ khua tang mít
Trưa trật nào ai móc kẽ rêu
Cha kiếp đường tu sao lắt léo
Cảnh buồn thêm chán nợ tình đeo

Hay qua bài
Khi cảnh, khi tiu, khi chũm choẹ
Giọng hi, giọng hỉ, giọng hi ha
Tu lâu có lẽ lên sư cụ
Ngất nghểu toà sen nọ đó mà

Người đời nhớ Xuân Hương ở tiếng cười phá phách, nhưng trong lòng Xuân Hương mang nặng những niềm đau .. trong đó khối tình của Xuân Hương nặng như đá, với những tâm sự thế thái nhân tình làm rung động sâu thẳm cõi lòng người
Gan nghiã giãi ra cùng nhật nguyệt
Khối tình cọ mãi với non sông
Đá kia còn biết xuân già dặn
Chả trách người ta lúc trẻ trung

(Đá ông chồng, đá bà chồng)
hoặc qua bài tình tự
Canh khuya văng vẳng trống canh dồn
Trơ cái hồng nhan với nước non
Chén rượu hương đưa đưa say lại tỉnh
Vầng trăng bóng xế khuyết chưa tròn !
Xiên ngang mặt đất rêu từng đám,
Đâm toạc chân mây đá mấy hòn
Ngán nỗi xuân đi, xuân lại lại
Mảnh tình san sẻ tý con con.

Xuân Hương vịnh bánh trôi nước quen thuộc của người bình dân. Thân em ở đây (Xuân Hương) hay là thân phận đàn bà dưới thời phong kiến lắm lận đận? nhưng tấm lòng được tôn trọng         
Thân em trắng phận em tròn
Bảy nổi ba chìm với nước non
Lớn nhỏ mặc dầu tay kẻ nặn 
Mà em vẫn giữ tấm lòng son 
       
  Hồ Xuân Hương có phong cách riêng tiêu biểu cho thái độ tự nhiên tràn đầy tình cảm trong sáng, thơ Hồ Xuân Hương rất bình dân, duyên dáng giàu khả năng gợi cảm, gợi tình, chứa chan tình tự và cảm khoái, không dùng hán tự điển tích. Bà có biệt tài sử dụng điệp khúc, âm điệu và tiết tấu, thích hợp với từng ý, từng hoàn cảnh. Dù muốn chê hay khen, đọc thơ Xuân Hương cảm thấy cái vui vui xen lẫn vào hồn, cái hay trong thơ Xuân Hương rất tuyệt vời, nhưng bài viết giới hạn không thể trình bày và trích giải hết được..Hồ Xuân Hương là nhà thơ độc đáo có một không hai trong văn học sử Việt Nam...