Thứ Bảy, 28 tháng 4, 2012


Những nét tiêu biểu trong thơ Hồ Xuân Hương

Hồ Xuân Hương trưởng thành trong giai đoạn lịch sử chiến tranh, ảnh hưởng nặng nề phong kiến “nhất nam viết tử thập nữ viết vô”.  Đàn bà ít được đi học ứng thí như đàn ông, may mắn học ít chữ, lấy chồng sanh con lo việc nội trợ. Xuân Hương đã tỏ ra là một thiên tài, làm thơ khẩu khí bị trợt té người ta cười, bà làm ngay hai câu thơ để chữa thẹn
Giơ tay với thử trời cao thấp 
Xoạc cẳng đo xem đất vắn dài  
 
   Hồ Xuân Hương thông minh, có tài, khá tiếc thay sinh ra phận gái nên cái lỗi lạc của bà thành ra lãng mạn mà lắm người cho là “lẳng lơ“! Nhưng hãy đọc mấy câu thơ sau của bà, dũng khí như một đấng tu mi nam tử. Khi đi ngang qua miếu Sầm Nghi Đống, bị vua Quang Trung giết ở Đống Đa mùng 5 tháng giêng năm Kỷ dậu 1789. Người Hoa lập miếu thờ, tin đồn miếu linh thiêng nên Xuân Hương đã đề mấy câu thơ :  
Ghé mắt trông nghiêng thấy bảng treo
Kià đền Thái thú đứng cheo leo
Ví đây đổi phận làm trai được
Thì sự anh hùng há bấy nhiêu ?  

    Dưới xã hội thời phong kiến người ta quan niệm „trai năm thê bảy thiếp, gái chín chuyên chỉ một chồng“ Xã hội bất công ! vấn đề đa thê ngày nay không được chấp nhận (ngoại trừ các nước theo Hồi Giáo). Ngày xưa chồng chết vợ phải thủ tiết thờ chồng.. Nhưng Xuân Hương đã muốn phá cái phong tục thời đó. Nên lúc sống với ông Phủ Vĩnh Tường, có người goá phụ còn trẻ muốn được tái giá, làm đơn xin quan phủ xét, gặp lúc ông phủ đi vắng, Xuân Hương xem đơn và phê ngay :
Phó cho con Nguyễn thị Đào
Nước trong loe lẻo cắm sào chờ ai ?
Chữ rằng xuân bất tái lai
Cho về kiếm chút kẻo mai nữa già .  

   Những bài thơ tuyệt tác của Xuân Hương được lưu truyền hậu thế qua tập Lưu Hương Ký. Biệt tài thơ Xuân Hương dùng chữ Việt thuần tuý, không vay mượn điễn tích sáo ngữ, đọc thơ hiểu được nghiã đen và nghiã bóng. Đọc thơ Hồ Xuân Hương với tâm hồn nghệ sĩ thực sự phát hiện được những khía cạnh miêu tả rất thẩm mỹ. 
   Đọc bài „Ngủ quên„ như xem bức tranh trưa hè người thiếu nữ đang ngủ, độc giả có thể liên tưởng đến bức tượng khỏa thân với những đường nét tuyệt vời sống động... cảm thấy rung động nghệ thuật trước hình ảnh đẹp lành mạnh.  
Mùa hè hây hẩy gió nồm đông
Thiếu nữ nằm chơi quá giấc nồng
Lược trúc chải cài trên mái tóc,
Yếm đào trễ xuống dưới nương long
Đôi gò Bồng Đảo sương còn ngậm
Một lạch Đào Nguyên suối chửa thông
Quân tử dùng dằng đi chẳng dứt
Đi thì cũng dở ở không xong. 
   Cái đẹp bất cứ ở đâu đều được mọi người yêu chuộng, người trần tục ai thấy hoa đẹp không muốn nhìn? Từ xưa và nay nhiều phê bình bàn cãi tranh luận, thơ Xuân Hương mang tính chất dâm và tục ..Những người yêu thơ Xuân Hương thường hết lời ca tụng xem những sáng tác cuả Xuân Hương kỳ diệu từ cách dùng chữ chính xác âm điệu kỳ tài.. Nhóm khác phê bình thơ mang chất tục sinh lý đè nén „Libido“ ..Bài thơ đầu đề không được thanh “Dương vật“ Hồ Xuân Hương tả rất hay
Bác mẹ sinh ra vốn chẳng hèn
Ban đêm không mắt sáng như đèn
Đầu đội nón da loe chóp đỏ
Lưng đeo bị đạn rủ thao đen
Để có thể thẩm định thế đứng của nhà thơ nầy, nói về Văn học không thể đọc một số bài thơ rồi cho là dâm tục có quá đáng chăng?.. Bởi vì vấn đề Tình Dục từ Á sang Âu thường được trình bày qua các tác phẩm văn chương, những hình điêu khắc chạm trổ trong các Cung điện, Đền đài lưu tại từ ngàn năm về trước có những nét đẹp độc đáo như thân thể đàn bà qua những đường cong tuyệt vời, bộ ngực no tròn lồ lộ dưới lớp xiêm y mỏng manh .. những tác phẩm đó thể hiện linh động văn hóa, sắc thái mang tính chất diễn tả về nghệ thuật. Mỗi dân tộc văn minh có sinh hoạt văn hoá khác nhau, Nhiều sắc dân họ thờ các bộ phận sinh dục, dân tộc Chàm xây các Tháp theo hình tượng Lingam (dương vật) tình dục được nói đến trong sinh hoạt của con người. Xã hội bình dân xưa không thoát khỏi qui luật dục vọng cá nhân là lẽ sống con người, dục vọng tập thể là lẽ sống của xã hội. Bởi vậy ca dao được truyền tụng trong dân gian. 
Có chồng từ thuở mười lăm.
Chồng chê tôi nhỏ không nằm cùng tôi.
Đến chừng mười chín đôi mươi.
Tôi ngủ dưới đất chàng lôi lên giường
Một rằng thương, hai rằng thương
Có bốn cẳng giường gãy một còn ba!

(Ca dao)
Đời sống qua thi ca bình dân, diễn tả trào lộng, vui tươi vốn có trong thực tế không nói xa gần, cái điếu cày hút thuốc người bình dân . 
Lòng em cay đắng quanh năm
Khi ngồi, khi đứng, khi nằm nghênh ngang
Các anh các bác trong làng
Gặp em thì lại vội vàng nâng niu
Vắng em đau khổ trăm chiều
Tuy rằng cay đắng nhưng nhiều người mê

(ca dao)
Nổi tiếng như Truyện Kiều diễn tả lại chuyện tình dục trong khuê phòng, 
Đêm xuân một giấc mơ màng
Đuốc hoa để đó, mặc nàng nằm trơ 
hoặc
Này con thuộc lấy nằm lòng
Vành ngoài bảy chữ, vành trong tám nghề
Chơi cho liễu chán hoa chê
Cho lăn lóc đá cho mê mẩn đời
Khi khóe hạnh khi nét ngài
Khi ngâm ngơi nguyệt khi cười cợt hoa
Điều là nghề nghiệp trong nhà
Đủ ngần ấy nếp mới là người soi

Hay Trạng Quỳnh với bài tạ ơn cô hàng bánh
Đương cơn nắng cực đói lòng thay
Thết đãi ơn cô có bụng nầy
Giờ biết lấy gì mà tạ lại
Xin quỳ hai gối chống hai tay

Sinh hoạt xã hội bất kỳ ở tầng lớp nào, dục tính cá nhân vẫn len lỏi vào cuộc sống. Cái khác biệt toàn thể về bản chất không ai giống ai. Hồ Xuân Hương người trần tục nên ca tụng sinh họat trần tục và những niềm vui trần tục, đọc thơ Xuân Hương để tiếp nhận cái tinh thần hồn nhiên trong ca dao, tục ngữ. Tôi Không đào sâu cái „tục“ trong thơ làm đề tài chính. Thơ Xuân Hương rất sống động tài tình mang tinh hoa khác, đó là một giá trị tồn tại mãi mãi trong lâu đài văn hoá dân tộc. Đọc hai bài thơ sau để so sánh bài đèo Ngang và đèo Ba Đội cuả hai nữ sĩ
Bước tới đèo ngang bóng xế tà
Cỏ cây chen đá, lá chen hoa
Lom khom dưới núi tiều vài chú
Lác đác bên sông chợ (rợ) mấy nhà
Nhớ nước đau lòng con cuốc cuốc
Thương nhà mỏi miệng cái gia gia
Dừng chân đứng lại trời non nước
Một mảnh tình riêng ta với ta

(Huyện Thanh Quan)
Chúng ta cảm nhận bài thơ ấy hay nhẹ nhàng trang nhã, bài nầy có 8 câu nhưng vay mượn ý của hai câu chữ Hán
Dạ thính đỗ quyên minh quốc quốc
Nhật văn cô điểu khiếu gia gia
Nghiã là 
Đêm nghe đỗ vũ kêu quốc quốc
Ngày lắng gà rừng gọi gia gia

Hồ Xuân Hương vịnh đèo Ba Đội là một bức tranh tả chân đơn sơ 
Một đèo, một đèo lại một đèo
Khen ai khéo tạc cảnh cheo leo
Cửa son đỏ loét tùm lum nóc  
Hòn đá xanh rì lún phún rêu
Lắt lẻo cành thông cơn gió thốc
Đầm đià lá liễu giọt sương rơi
Hiền nhân quân tử ai là chẳng
Mõi gối chồn chân cũng muốn trèo

          Bài thơ nầy đọc qua độc giả có thể nhận ra ngay đó là đèo Ba Đội, „một đèo, một đèo lại một đèo“  từ màu sắc “cửa son đỏ lóet; tùm lum, xanh rì; lún phún; lắt lẻo“.. Xuân Hương đã tài tình tạo ra một bức tranh sống động thành hợp tấu kỳ thú, từ âm thanh, màu sắc, nếu đi qua đèo thi độc giả chia sẻ với thi nhân  Xuân Hương là một nhạc sĩ tài tình, phối hợp cả âm thanh, màu sắc, không gian lẫn thời gian, tạo những nét đặc sắc, thông thường ít nghe diệp âm „hõm hòm hom, toen hoẻn ..„ trong bài vịnh hang Cắc Cớ
Trời đất sinh ra đá một chòm
Nứt làm đôi mảnh hõm hòm hom 
Kẽ hầm rêu mốc trơ toen hoẻn,
Luồng gió thông reo vỗ phập phòm
Gịot nước hữu tình rơi lõm bõm
Con đường vô ngạn tối om om
Khen ai đẽo đá tài xuyên tạc
Khéo hớ hênh ra lắm kẻ dòm
       Giọt nước từ những thạch nhủ rơi từng giọt, xuống vũng nước bên dưới lõm bõm, con đường vào hang thiếu ánh sáng. Ngày nay nhờ phương tiện lưu thông thuận lợi, nếu ghé hang Thánh Hoá ở làng Thuỵ Khê, huyện Sài Sơn tỉnh Sơn Tây (Hà Tây) hang ở hòn núi có Chùa Thầy. Hàng năm có hội chùa Thầy mà không vào hang Cắc Cớ thì coi như chưa biết chùa Thầy. Đến đó sẽ nhớ ngay nữ sĩ Xuân Hương ! là một thiên tài cũng vịnh cảnh Chùa Hương Tích ở huyện Mỹ Đức Hà Đông rất linh động cảnh trời mây non nước..vào những ngày đầu xuân, hội Chùa Hương nhộn nhịp, người tu hành thì ít, kẻ trần tục thì nhiều, muốn lên phải gọi là trèo các bậc thì đúng hơn là đi, chen chân trong động hương khói pha mờ mù sương.
Người quen cõi Phật chen chân xọc
Kẻ lạ bầu tiên mỏi mắt dòm... 
              
        Bài „đánh đu“ bức tranh quê sống động hơn, diễn tả cảnh vui xuân náo nhiệt
Bốn cột khen ai khéo khéo trồng
Người thì lên đánh, kẻ ngồi trông
Trai đu gối hạc khom khom cật,
Gái uốn lưng ong ngửa ngửa lòng
Bốn mảnh quần hồng bay phất phới
Hai hàng châu ngọc duỗi song song
Chơi xuân ai biết xuân chăng tá ? 
Cột nhổ đi rồi, lỗ bỏ không  !
        Có thể Hồ Xuân Hương phỏng theo bài thơ trên bài cây đánh đu vốn có trong tập Hồng Đức Quốc Âm Thi Tập
Bốn cột lang nha ngắm để trồng
À thì đánh cái ả còn ngong
Tế hậu thổ khom khom cật,
Vái hoàng thiên ngửa ngửa lòng
Tám bức quần hồng bay phất phới,
Hai hàng châu ngọc đứng song song
Chơi xuân hết tấc xuân dường ấy
Nhổ cột đem về để lỗ không .

Ngày nay ở miền Bắc hội xuân vẫn còn giữ trò chơi đánh đu, thường những trai gái thích đánh đu như cuộc thi lòng dũng cảm. Khi chàng trai nhấn đu, cô gái trong tư thế tay nắm chặt, chân duỗi thẳng, chờ đón độ cao bay bổng. Khi độ cao đã giảm đến lượt cô gái nhún, chàng trai lại chờ đón..tất cả phải nhịp nhàng, khoẻ mà mềm mại bay cao ung dung, vẻ đẹp càng hiện rõ hình thể bên ngoài ..gối hạc, lưng ong, ngưả ngửa lòng, phất phới, song song. Xuân Hương đã khéo tài tình dùng điệp khúc 
Qua ca dao Việt nam cũng có nhiều bài truyền tụng rất là „tục“ như cái vịnh cái quạt
Rành rành ba góc rành rành 
Khi khép nhỏ lại, khi vành to ra
Khi vui thì sướng thay là 
Khi buồn thì nước chảy ra rì rì..

    Hồ Xuân Hương tả cái quạt duyên dáng hơn có tính cách tương tự như ca dao tục ngữ hài hước, tả cái quạt có nhiều nan được bồi bằng giấy với hình dáng xòe ra để quạt cho mát, bất cứ ở đâu, khi mưa có thể che đầu, khi xếp lại những nếp giấy chồng lên vẫn còn thừa.
Một lỗ sâu xâu mấy cũng vừa
Duyên em dính dáng tự bao giờ
Chành ra ba góc da còn thiếu
Khép lại đôi bên thịt vẫn thừa
Mát mặt anh hùng khi nắng gió,
Che đầu quân tử lúc sa mưa
Nâng niu ướm hỏi người trong trướng
Phì phạch trong lòng đã sướng chưa ...

     Ngành tiểu công nghệ dệt vải thời xưa mỗi gia đình ở thôn quê, thường trồng cây bông, nuôi tằm ươm tơ làm luạ tự dệt may sắm áo quần. Ban ngày làm việc đồng áng, đêm về dệt vải với dụng cụ đơn giản cái khung cửi, hai ống trục, một bộ go, hai cái lược, một đôi guốc con suốt, con thoi (con cò bằng gõ). Xuân Hương tả đêm cô gái dệt vải; mà phẩm chất vải tốt không phai màu phải ngâm lâu
Thắp đèn lên thấy trắng phau
Con cò mấp máy suốt đêm thâu
Hai chân đạp xuống năng năng nhắc
Một suốt đâm ngang thích thích mau
Rộng hẹp nhỏ to vưà vặn cả
Ngắn dài khuôn khổ cũng như nhau
Cô nào muốn tốt ngâm cho kỹ
Chờ đến ba thu mới dãi màu
 Chùa Quán Sứ được xây dựng từ thế kỷ thứ 17 nằm ở phố cũng mang tên Quán Sứ Hà Nội; Phật giáo vào thời Xuân Hương suy thoái, thời nào cũng có người núp dưới chiếc áo cà sa.. Xuân Hương đã nghi ngờ về chùa Quán Sứ trong cảnh vắng teo
Quán sứ sao mà cảnh vắng teo
Hỏi thăm sư cụ đáo nơi nao
Chày kình, tiểu để suông không đấm
Tràng hạt, vãi lần đếm lại đeo
Sáng banh không kẻ khua tang mít
Trưa trật nào ai móc kẽ rêu
Cha kiếp đường tu sao lắt léo
Cảnh buồn thêm chán nợ tình đeo

Hay qua bài
Khi cảnh, khi tiu, khi chũm choẹ
Giọng hi, giọng hỉ, giọng hi ha
Tu lâu có lẽ lên sư cụ
Ngất nghểu toà sen nọ đó mà

Người đời nhớ Xuân Hương ở tiếng cười phá phách, nhưng trong lòng Xuân Hương mang nặng những niềm đau .. trong đó khối tình của Xuân Hương nặng như đá, với những tâm sự thế thái nhân tình làm rung động sâu thẳm cõi lòng người
Gan nghiã giãi ra cùng nhật nguyệt
Khối tình cọ mãi với non sông
Đá kia còn biết xuân già dặn
Chả trách người ta lúc trẻ trung

(Đá ông chồng, đá bà chồng)
hoặc qua bài tình tự
Canh khuya văng vẳng trống canh dồn
Trơ cái hồng nhan với nước non
Chén rượu hương đưa đưa say lại tỉnh
Vầng trăng bóng xế khuyết chưa tròn !
Xiên ngang mặt đất rêu từng đám,
Đâm toạc chân mây đá mấy hòn
Ngán nỗi xuân đi, xuân lại lại
Mảnh tình san sẻ tý con con.

Xuân Hương vịnh bánh trôi nước quen thuộc của người bình dân. Thân em ở đây (Xuân Hương) hay là thân phận đàn bà dưới thời phong kiến lắm lận đận? nhưng tấm lòng được tôn trọng         
Thân em trắng phận em tròn
Bảy nổi ba chìm với nước non
Lớn nhỏ mặc dầu tay kẻ nặn 
Mà em vẫn giữ tấm lòng son 
       
  Hồ Xuân Hương có phong cách riêng tiêu biểu cho thái độ tự nhiên tràn đầy tình cảm trong sáng, thơ Hồ Xuân Hương rất bình dân, duyên dáng giàu khả năng gợi cảm, gợi tình, chứa chan tình tự và cảm khoái, không dùng hán tự điển tích. Bà có biệt tài sử dụng điệp khúc, âm điệu và tiết tấu, thích hợp với từng ý, từng hoàn cảnh. Dù muốn chê hay khen, đọc thơ Xuân Hương cảm thấy cái vui vui xen lẫn vào hồn, cái hay trong thơ Xuân Hương rất tuyệt vời, nhưng bài viết giới hạn không thể trình bày và trích giải hết được..Hồ Xuân Hương là nhà thơ độc đáo có một không hai trong văn học sử Việt Nam...
                                                                                                                                  

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét